LÀNG GỐM THANH HÀ
LÀNG GỐM THANH HÀ
Thanh Hà, ngày của nắng và Hội An, đêm của gió…
Lửa chi lửa rực sáng lòa
Lò gốm, lò gạch Thanh Hà là đây
Đêm khuya phảng phất gió tây
Người thương thức dậy lời bày đón đưa
(lời một bài ca địa chí Quảng Nam)
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Làng gốm Thanh Hà, là một làng nghề lâu đời của Hội An. Sản phẩm gốm khi xưa được tiêu thụ khắp miền Trung, góp phần xây dựng miếu điện triều Nguyễn và còn xuất sang Nhật Bản, Trung Quốc, Hà Lan.
Làng nổi tiếng với gốm, gạch ngói, đặc biệt là ngói âm dương trên nhiều mái nhà cổ Hội An. Nhờ nằm gần cảng Hội An sầm uất, gốm Thanh Hà càng phát triển, mang dấu ấn văn hóa Sa Huỳnh – Champa thể hiện qua nhiều di vật tìm thấy trong sản phẩm cổ.
Thôn Thanh Chiếm (nay là khối 5, phường Thanh Hà) từng phát triển mạnh nhờ đất sét sông Thu Bồn; khi dòng sông đổi hướng vào đầu thế kỷ XIX, các nghệ nhân chuyển về Nam Diêu – trung tâm gốm hiện nay. Hằng năm, làng tổ chức Giỗ Tổ nghề vào 10/7 âm lịch. Ngày 27/8/2019, nghề gốm Thanh Hà được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Từ thế kỷ XV, nhiều cư dân Thanh–Nghệ–Tĩnh di cư vào Nam, lập làng và tạo nên cộng đồng gắn kết, cởi mở, thuận lợi giao lưu và phát triển. Đầu thế kỷ XVI, một nhóm cư dân mang theo nghề nghiệp quê cũ đến định cư bên sông Thu Bồn, lập làng Thanh Hà và khởi dựng nghề gốm, mở đầu cho một làng nghề nổi tiếng miền Trung.
Từ thế kỷ XVI đến XVIII, các làng nghề chuyên nghiệp phát triển mạnh, sản phẩm vừa phục vụ trong nước vừa xuất khẩu. Nhờ vị trí gần sông và thương cảng Hội An hưng thịnh, gốm Thanh Hà trở thành trung tâm sản xuất đồ gốm, bình chứa và vật dụng sinh hoạt, góp phần vào sự phồn vinh của cảng Hội An.
Sản phẩm của làng gốm Thanh Hà có nhiều màu sắc khác nhau: đỏ, vàng, đỏ gạch, nâu, đen…
Các sản phẩm gốm cổ truyền không hề được phủ men và sản phẩm gốm truyền thống của Thanh Hà đều không trang trí, chỉ có một số ít các loại hũ có miệng hẹp được trang trí ở quanh phần cổ và vai với đồ án phổ biến là viền răng cưa nổi hay viền chỉ nổi.
Nghề gốm Thanh Hà trải qua nhiều thăng trầm do biến động lịch sử, xã hội và kinh tế, nhưng người dân vẫn quyết tâm bám nghề và phát triển đến hôm nay. Thành tựu ấy có phần lớn công lao của các bậc cao nhân – “những người đi tìm hồn của đất” – những người đã miệt mài giữ lửa, khơi lại nghề trong giai đoạn khó khăn nhất và truyền tình yêu gốm cho các thế hệ nối tiếp gìn giữ, phát huy cơ nghiệp cha ông.
Cụ bà Nguyễn Thị Được, gần 80 năm gắn bó với đất sét, bàn chuốt và lò nung, là thợ gốm giàu kinh nghiệm nhất và được xem như “huyền thoại làng gốm” Thanh Hà. Sinh ra trong gia đình có truyền thống gốm, bà sớm học nghề và trở thành thợ chuốt từ năm 15 tuổi. Suốt hơn 75 năm, bà luôn là thợ lành nghề, dành trọn tâm huyết truyền dạy kỹ thuật chuốt gốm và truyền cảm hứng cho con cháu, góp phần giữ gìn ngọn lửa nghề của làng.
Là người tiên phong nối truyền thống với hiện đại, Lê Quốc Tuấn góp phần lớn giữ ngọn lửa đam mê gốm của quê hương và nhận nhiều giải thưởng cho các tác phẩm của mình. Giữa những sản phẩm đất nung, người đàn ông 45 tuổi chia sẻ: anh không còn lo mưu sinh mà tập trung sáng tạo sản phẩm mới, giúp làng gốm phát triển, bắt kịp thời đại mà vẫn giữ gìn cội nguồn. Anh tin rằng Thanh Hà sẽ sống, bởi ông cha từng vượt qua còn nhiều gian khó hơn.
Dù đã ngoài 80 tuổi, tóc đã bạc trắng nhưng ông Nguyễn Lành vẫn có đôi mắt sáng, giọng nói khỏe khoắn, bước đi đều đều khi dẫn đầu đoàn rước các già làng trong ngày lễ. Ông chứ không ai khác chính là “quý đại nhân” của hội nghệ nhân đóng thuyền Lê Thị Chiến.
Lê Văn Xê là người tiên phong phát triển các loại lò gốm kiểu mới với sự hỗ trợ của Nhà nước. Dù vẫn giữ quy trình truyền thống, lò được cải tiến để có năng suất cao, bền hơn và giảm ô nhiễm nhờ thành dày và ống khói tốt hơn. Ở tuổi ngoài 50, ông vẫn tự mình làm lò cùng vợ.